Nghi Dân cướp ngôi vua được 8 tháng, nhưng vì tính hay nghe lời dua nịnh, chém giết kẻ cựu thần, cho nên lòng người không ai phục, đến tháng sáu năm canh thìn (1460) các quan đại thần là bọn Nguyễn Xí, Đinh Liệt mưu chém Phạm Đồn và Phan Ban ở giữa nghị sự đường, rồi đóng cữa thành lại vào bắt Nghi Dân giết đi, rước con thứ tư vua Thái tông là Bình nguyên vương Tư Thành lên làm vua, tức là vua Thánh tông.
Thánh tông là một ông vua thông minh, thờ mẹ rất có hiếu, ở với bề tôi đãi lấy lòng thành. Ngài trị vì được 38 năm, sửa sang được nhiều việc chính trị, mở mang sự học hành, chỉnh đốn các việc vũ bị, đánh dẹp nước Chiêm, nước Lào, mở thêm bờ cõi, khiến cho nước Nam ta bấy giờ đuợc văn minh thêm ra và lại lừng lẫy một phương, kể từ xưa đến nay chưa bao giờ cường thịnh như vậy.
Thánh tông lên ngôi rồi phong tước và cấp ruộng quan điền cho các công thần. Ngài lại truy tặng những người công thần bị giết oan ngày trước, và cho tìm con cháu ông Nguyễn Trãi về, cấp cho 100 mẫu ruộng để phụng thờ tổ tiên.
Những người mà được quốc tính, nay ngài cho phục tính lại để cho khỏi mất tên họ.
Từ trước đến giờ triều chính vẫn theo lối cũ của nhà Trần : trên thì có tả hữu Tướng quốc, rồi đến Lễ bộ, Lại bộ, Nội các viện, Trung Thư, Hoàng Môn, và ba sở Môn hạ, lại có ngũ đạo Hành khiển để coi sổ sách quân dân các đạo. Đến khi Nghi Dân cướp ngôi, đặt ra lục Bộ và lục Khoa. Lục Bộ là : Lại bộ, Hộ bộ, Lễ bộ, Binh bộ, Công bộ và Hình bộ. Lục khoa là : Lại khoa, Lễ khoa, Binh khoa, Hình khoa, Hộ khoa và Công khoa.
Quan lục bộ thì có Thượng thư làm đầu, rồi đến tả hữu Thị lang, Lang trung, Viên ngoại lang, Tư vụ.
Thánh tông đặt thêm ra lục tự là : Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự, Thượng bảo tự. Quan Lục Tự thì có Tự khanh, Thiếu khanh và Tự thừa.
Ngài lại lập ra quan chế và lễ nghi theo như bên Tàu. Các quan văn võ có phần ruộng đất, lại được tiền tuế bổng. Nhưng ai mà làm điều gì nhũng lạm thì đều phải nghiêm trị.
Ngài lại định lệ trí sĩ, cho các quan nội ngoại : ai làm quan đến 65 tuổi thì được xin về trí sĩ, còn những người làm nha lại đến 60 tuổi cũng được xin về.
Trước vua Thái tổ chia ra làm 5 đạo, có phủ, lộ, trấn, châu, huyện, xã. Đạo thì đặt quan Hành khiển, Tuyên phủ chánh phó sứ; phủ thì đặt Tri phủ; lộ thì đặt An phủ sứ; trấn thì đặt Trấn phủ sứ; huyện thì đặt Chuyển vận sứ và Tuần sát sứ; xã thì đặt Xã quan.
Thánh tông chia nước ra làm 12 đạo là Thanh hóa, Nghệ an, Thuận hóa, Thiên trường, Nam sách, Quốc oai, Bắc giang, An bang, Hưng hóa, Tuyên quang, Thái nguyên, Lạng sơn. Mỗi đạo có tòa Đô, tòa Thừa và tòa Hiến. Tòa Đô thì có chánh phó Đô tổng binh, coi về việc binh; tòa Thừa thì có Thừa chính chánh phó sứ, coi về việc chính; tòa Hiến thì có Hiến sát chánh phó sứ, coi về việc hình.
Lại đặt ra chức Giám sát ngự sử để đi xem xét công việc ở các đạo cho khỏi sự nhũng nhiễu.
Sau nhân có đất Quảng nam mới lấy của Chiêm thành lại đặt ra làm 13 xứ là Thanh hóa, Nghệ an, Sơn nam (trước là Thiên trường), Sơn tây (trước là Quốc oai), Kinh bắc (trước là Bắc giang), Hải dương (trước là Nam sách), Thái nguyên, Tuyên quang, Hưng hóa, Lạng sơn, An bang, Thuận hóa, Quảng nam. Ở những xứ hiểm yếu như Nghệ an, Thuận hóa, Tuyên quang, Hưng hóa, Thái nguyên, Lạng sơn, Quảng nam đều đặt chức Thủ ngự kinh lược sứ để phòng giữ. Trong 13 xứ ấy lại chia làm 52 phủ, 172 huyện và 50 châu. Còn ở dưới phủ huyện thì có hương, phường, xã, thôn, trang, sách, động, nguyên, trưởng cả thảy là 8.006.
Bấy giờ thuế đinh mỗi người đồng niên đóng 8 tiền; còn thuế ruộng, thuế đất và thuế đất bãi trồng dâu thì cứ kể mẫu mà đóng thuế, mà thứ đất nào cũng chia ra làm ba hạng.
Việc làm sổ hộ, thì cứ 6 năm một kỳ, quan phủ huyện phải dẫn các xã trưởng về Kinh để khai số hộ khẩu ở các xã.
Vua Thánh tông lấy sự nông tang làm trọng, cho nên ngài chú ý về việc ấy lắm. Thường thường ngài sắc cho phủ huyện phải hết sức khuyên bảo dân làm việc cày ruộng trồng dâu.
Đặt quan Hà đê và quan Khuyến nông để coi việc cày cấy trong nước. Bắt quan Hộ bộ và quan Thừa chính ở các xứ phải tâu cho ngài biết những đất bỏ hoang để bắt phủ huyện đốc dân phu khai khẩn làm ruộng.
Lập ra cả thảy 42 sở đồn điền, đặt quan để trông nom sự khai khẩn, khiến cho dân khỏi phải đói khổ.
Vua Thánh tông lại lo đến các chứng bệnh làm hại dân. Ngài lập nhà Tế sinh để nuôi những người đau yếu, và khi nào ở đâu có dịch tễ thì sai quan đem thuốc đi chữa bệnh.
Dân ta bấy giờ sùng tín đạo Phật, hay làm đình làm chùa. Những lễ hôn và lễ tang thì làm những điều trái với lẽ thường, như là nhà nào có tang chế thì làm cỗ bàn ăn uống, rồi bày ra các trò hát xướng, làm một cuộc vui chơi. Lễ hôn thì ăn lễ hỏi rồi, để ba bốn năm mới cho rước dâu về nhà chồng.
Thánh tông cấm không cho làm chùa mới, để tiền của và công phu mà làm việc có ích. Cấm những nhà có lễ tang không được bày cuộc hát xướng. Việc hôn thì khi đã nhận lễ hỏi rồi, phải chọn ngày cho rước dâu, và lệ cứ cưới rồi ngày hôm sau đi chào cha mẹ, ba ngày thì đi lễ từ đường.
Ngài lại đặt ra 24 điều, sức cho dân xã thường thường giảng đọc để giữ lấy thói tốt :
1. Cha mẹ dạy con phải có phép tắc, trai gái đều có nghề nghiệp, không được rượu chè cờ bạc, tập nghề hát xướng để hại phong tục.
2. Người gia trưởng tự mình phải giữ lễ phép để cho cả nhà bắt chước; nếu con em làm càn, thì bắt tội người gia trưởng.
3. Vợ chồng cần kiệm làm ăn, ân nghĩa trọn vẹn, duy chỉ có khi nào người vợ phạm tội thất xuất thì mới được bỏ, chứ không được khiên ái cẩu dung
làm hại đến phong hóa.
4. Làm kẻ tử đệ nên yêu mến anh em, hòa thuận với hương đảng, phải lấy lễ nghĩa mà cư xử; nếu trái phép thì người tôn trưởng đánh đập dạy bảo, có tội to thì phải đem nộp quan để trừng trị.
5. ở chốn hương đảng tông tộc, có việc hoạn nạn thì phải giúp đỡ lẫn nhau; nếu ai có tiếng là người hạnh nghĩa tốt, thì các quan phủ huyện sở tại phải bẩm lên tòa Thừa, tòa Hiến, để tâu vua mà tinh biểu cho.
6. Đàn bà có lỗi mà cha mẹ và chồng đã trừng trị thì nên phải sửa mình đổi lổi, không được tự tiện trốn đi, làm hư mất nết đàn bà.
7. Người đàn bà góa không được chứa những đứa trai trẻ ở trong nhà, nói dối là con nuôi để ám hành những việc gian dâm.
8. Người đàn bà góa chồng, đối với các con vợ cả, hoặc vợ lẽ, nàng hầu, nên có lòng thương xót, không được mưu mô để chiếm đoạt gia tài làm của riêng mình.
9. Đàn bà góa chồng, chưa có con cái, phải ở nhà chồng để giữ đủ tang lễ, không được chuyển vận, của cải mang về nhà mình.
10. Làm đàn bà thì phải theo chồng, không được cậy cha mẹ mình phú quí mà khinh nhà chồng, nếu không như thế thì bắt tội đến cha mẹ.
11. Kẻ sĩ phu nên quí phẩm hạnh và giữ phép quan, nếu cứ xu nịnh những kẻ quyền quí để cậy thế làm càn thì phải cách bỏ đi không kể đến nữa.
12. Kẻ điển lại chỉ việc giữ sổ sách giấy má để làm việc quan, nếu làm những sự điên đảo án từ, thì quan trên sẽ xét ra mà trừng trị.
13. Quan dân đều phải hiếu để, và chăm chỉ làm ruộng, cùng giúp đỡ lẫn nhau; khi đi làm việc quan, không được trễ biếng, trốn tránh. Nếu ai có tiếng là người lương thiện thì các quan phủ huyện phải trình tòa Thừa, tòa Hiến để tâu mà tinh biểu cho.
14. Kẻ thương mãi phải tùy thời giá mà buôn bán với nhau, không được thay đổi thưng đấu, và tụ tập đồ đảng để đi trộm cướp; nếu phạm điều ấy thì trị tội rất nặng.
15. Việc hôn giá tế tự phải giữ lễ phép, không được làm càn.
16. Chỗ dân gian có mở trường du hí hoặc cúng tế, thì con trai con gái đến xem, không được đứng lẫn lộn, để khỏi thói dâm.
17. Các hàng quán bên đường, có phụ nữ đi xa đến trọ, thì phải phòng giữ. Nếu để hà hiếp ô nhục người ta, việc phát giác ra, thì người phạm cùng với chủ nhà đều phải trị tội cả.
18. Phủ huyện phải lập bia ở các nơi sở tại để cấm con trai con gái không được cùng tắm một bến, để cho có phân biệt.
19. Các xã thôn phải chọn một vài người già cả, đạo đức làm trưởng, những ngày thong thả đem dân ra đình, tuyên giảng những lời cáo dụ, để khiến dân bắt chước làm điều thiện, thành ra mỹ tục.
20. Trong hạt phủ huyện có kẻ cường hào xâm chiếm điền thổ, ức hiếp cô độc và xui giục người ta kiện tụng, thì cho xã thôn cáo giác lên để quan xử trị, nếu mà ẩn nặc thì phải biếm bãi.
21. Các nhà vương, công, đại thần dung túng những đứa tiểu nhân, đưa người khấn lễ, và để cho người nhà đi ức hiếp dân gian mà mua rẻ các đồ vật, thì cho dân được đầu cáo để trọng trị.
22. Những người làm quan phủ, huyện mà biết khuyên bảo dân gian làm điều lễ nghĩa khiêm nhượng, có quan Thừa chính, Hiến sát xét thực, thì được cho vào hạng tốt; nếu ai không chăm dạy bảo dân thì cho là người không xứng chức.
23. Các người huynh trưởng ở chốn xã thôn và phường biết dạy bảo con em trong làng cho nên được phong tục tốt, thì quan phủ huyện phải bẩm tòa Thừa, tòa Hiến để tâu vua ban khen cho.
24. Các dân mường mán ở ngoài bờ cõi, nên giữ lời di huấn, không được trái đạo luân thường như cha, anh, chú, bác đã chết thì con em không được chiếm lấy những thê thiếp, nếu mà trái phép, thì sẽ trị tội rất nặng.
Từ xưa đến nay nước Nam ta vẫn không có địa đồ, Thái tông bèn sai quan ở các đạo xem xét ở trong hạt mình có những núi sông gì, hiểm trở thế nào phải vẽ địa đồ ra cho rõ ràng và chỗ nào tự cổ chí kim có những sự tích gì phải ghi chép vào cho tường tận, rồi gửi về bộ Hộ để làm quyển địa dư nước ta.
Thánh tông sai Ngô sĩ Liên làm bộ Đại Việt sử ký chia ra làm 2 bản. Một bản kể từ Hồng bàng thị cho đến thập nhị Sứ quân có 5 quyển. Một bản kể từ Đinh Tiên hoàng cho đến Lê Thái tổ có 10 quyển. Cả thảy là 15 quyển.
Vua Thánh tông định phép thi hương, sửa phép thi hội, để chọn lấy nhân tài. Thường ngài ra làm chủ các kỳ thi đình, và ngài lập ra lệ xướng danh các Tiến sĩ và lệ cho về vinh qui.
Ngài mở rộng nhà Thái học ra. Phía trước thì làm nhà Văn miếu, phía sau thì làm nhà Thái học, và làm ra các phòng ốc để cho những kẻ sinh viên ở học. Làm kho Bí thư để mà chứa sách. Sự học bấy giờ càng ngày càng mở mang thêm.
Ngài lại hay ngâm thi, đặt ra Quỳnh uyển cửu ca, xưng làm Tao đàn nguyên súy, cùng với kẻ triều thần là bọn ông Thân nhân Trung, Đỗ Nhuận, cả thảy 28 người xướng họa với nhau. Non xanh nước biếc chỗ nào cũng có thơ của ngài.
Ngài sai ông Thân nhân Trung và ông Đỗ Nhuận làm bộ Thiên nam dư hạ tập, 100 quyển nói về việc chính là hình luật đời Hồng đức. Ngài làm ra một quyển Thân chinh ký sự, kể việc ngài đi đánh Chiêm thành, Lão qua và các mường.
Tuy rằng vua Thánh tông hết lòng sửa sang mọi việc trong nước, nhưng ngài cũng hiểu rằng phàm một nước mà cường thịnh thì tất là phải có võ bị, cho nên ngài bắt các quan tổng binh phải chăm giảng tập trận đồ, phải luyện tập sĩ tốt để phòng khi có việc.
Ngài đổi năm Vệ quân ra làm năm phủ là : Trung quân phủ, Nam quân phủ, Bắc quân phủ, Đông quân phủ và Tây quân phủ. Mỗi một phủ thì có 6 vệ, mỗi vệ có 5 hay là 6 sở, mỗi sở có số quân độ 400 người. Quân cả 5 phủ ước chừng 6, 7 vạn người. Ngài lại đặt ra 31 điều quân lệnh để tập thủy trận; 42 điều để tập bộ trận.
Lại đặt ra lệ cứ ba năm một kỳ thi võ. Tướng sĩ ai đậu thì thưởng, ai hỏng thì phạt, để khiến mọi người đều vui lòng về việc võ bị.
Đời vua Thánh tông mấy năm về trước cũng được yên ổn, nhưng mấy năm về sau thì phải chinh chiến nhiều lần. Khi thì phải đánh giặc Lào, khi thì đánh những giặc cỏ ở trong nước; nhưng chỉ có đánh Chiêm thành, đánh Lão qua và đánh Bồn man là phải dùng đến đại binh.
Nước ta bấy giờ tuy phải theo lệ xưng thần với nhà Minh, nhưng vua Thánh tông vẫn hết lòng phòng bị mặt bắc. Thỉnh thoảng có những người thổ dân sang quấy nhiễu, thì lập tức cho quan quân lên tiễu trừ và cho sứ sang Tàu để phân giải mọi sự cho minh bạch. Có một hôm được tin rằng người nhà Minh đem binh đi qua địa giới, Thánh tông liền cho người lên do thám thực hư. Ngài bảo với triều thần rằng : "Ta phải giữ gìn cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của vua Thái tổ để lại."
Ngài có lòng vì nước như thế, cho nên dẫu nước Tàu có ý muốn dòm ngó cũng không dám làm gì. Vả lại quân An nam bấy giờ đi đánh Lào, dẹp Chiêm, thanh thế bao nhiêu, nhà Minh cũng phải lấy lễ nghĩa mà đãi An nam, cho nên sự giao thiệp của hai nước vẫn được hòa bình.
Xem những công việc của vua Thánh tông thì ngài thật là một đấng anh quân. Những sự văn trị và sự võ công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn là đời Hồng đức. Nhờ có vua Thái tổ thì giang sơn nước Nam mới.
Theo địa dư nước Tàu, thì Kim sa giang là khúc trên sông Trưng giang. Sông ấy chảy ở phía bắc qua tỉnh Tây khương và Tứ xuyên. Đây có lẽ là nhà chép sử lẫn với khúc sông Lan thương giang là khúc trên Cửu long giang còn, và nhờ có vua Thánh tông thì văn hóa nước ta mới thịnh, vậy nên người An nam ta không bao giờ quên công đức hai ông vua ấy.
Thánh tông làm vua được 38 năm thọ được 56 tuổi.