Lý Thái Tổ lên làm vua năm 1010

Thái Tổ khởi nghiệp.
Lý công Uẩn người ở làng Cổ pháp, nay thuộc về huyện Đông ngạn, phủ Từ sơn, tỉnh Bắc ninh (ở làng Đình bảng có lăng và đền thờ nhà Lý). 

Tục truyền rằng Công Uẩn không có cha, mẹ là Phạm thị đi chơi chùa Tiêu sơn (làng Tiêu sơn, phủ Từ sơn), nằm mộng thấy đi lại với thần nhân rồi về có thai đẻ ra đứa con trai. Lên ba tuổi đem cho người sư ở chùa Cổpháp tên là Lý khánh Văn làm con nuôi, mới đặt tên là Lý công Uẩn. 

Công Uẩn lớn lên vào Hoa lư làm quan nhà Tiền Lê, đến chức Tả thân  vệ Điện tiền Chỉ huy sứ. Khi Lê Long Đĩnh mất, thì Lý công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà Tiền Lê lắm, ở trong triều có bọn Đào cam Mộc cùng với sư Vạn Hạnh mưu tôn Lý công Uẩn lên làm vua. Lý công Uẩn bèn lên ngôi hoàng đế, tức là vua Thái tổ nhà Lý. 

Dời Đô Về Thăng Long Thành.
Thái tổ thấy đất Hoa lư chật hẹp không có thể mở mang ra làm chỗ đô hội được, bèn định dời đô về La thành. Tháng 7 năm Thuận thiên nguyên niên (1010), thì khởi sự dời đô. Khi ra đến La thành, Thái tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng hiện ra, bèn đổi Đại la thành là Thăng long thành, tức là thành Hà nội bây giờ. Cải Hoa lư làm trường an phủ và Cổ pháp làm Thiên đức phủ. 

Lấy Kinh Tam Tạng.
Nhà Lý bấy giờ sùng đạo Phật, nhà vua trọng đãi những người đi tu, lấy tiền kho ra để làm chùa đúc chuông. Tháng 6 năm mậu ngọ (1018) vua sai quan là Nguyễn đạo Thanh và Phạm Hạc sang Tàu lấy kinh Tam tạng đem về để vào kho Đại hưng. 

Việc Chính Trị.
Lúc bấy giờ ở bên nhà Tống có nhiều việc, cho nên cũng không sinh sự lôi thôi gì với nước ta. Bởi vậy khi Thái tổ lên làm vua, sai sứ sang cầu phong, vua nhà Tống liền phong cho làm Giao chỉ quận vương, sau lại gia phong Nam bình vương. Nước Chiêm thành và nước Chân lạp đều sang triều cống, cho nên việc bang giao thời bấy giờ đều yên trị.

ở trong nước cũng có đôi ba nơi nổi lên làm loạn, như ở Diễn châu (thuộc Nghệ an) và ở mạn Thượng du hay có sự phản nghịch, nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp mới yên được. 

Thời bấy giờ các hoàng tử đều phong tước vương và phải cầm quân đi đánh giặc, bởi vậy ai cũng giỏi nghề dùng binh. 

Thái tổ lưu tâm về việc sửa sang trong nước: đổi phép cũ của nhà Tiền  Lê; chia nước ra làm 24 lộ, gọi Hoan châu và Ái châu là trại. Lại định ra 6 hạng thuế là : thuế ruộng, đầm, ao; thuế đất trồng dâu và bãi phù sa; thuế sản vật ở núi; thuế mắm muối đi qua Aỉ quan; thuế sừng tê, ngà voi và hương ở trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ hoa quả. Vua cho những bậc công chúa coi việc trưng thu các thứ thuế ấy. 
Thái tổ trị vì được 19 năm thì mất, thọ 55 tuổi.