Lý Nhân Tông lên làm vua năm 1072

Ỷ Lan Thái Phi.
Vua Nhân tông là con bà Ỹ lan Thái phi, người ở Siêu loại (Bắc ninh). Khi trước vua Thánh tông đã 40 tuổi mà không có con, đi cầu tự qua làng Thổ lội (sau đổi là Siêu loại rồi lại đổi là Thuận  quang), người đi xem đứng đầy đường, có một người con gái đi hái dâu, thấy xe nhà vua đi cứ đứng tựa vào cây lan chứ không ra xem. Vua thấy thế lấy làm lạ, truyền gọi đem vào cung, phong là Ỹ lan phu nhân. Được ít lâu có thai đẻ ra hoàng tử là Càn Đức, được phong là Nguyên phi. 

Càn Đức làm thái tử rồi lên nối ngôi, tức là vua Nhân tông, phong cho mẹ làm Ỹ lan thái phi. 
Thái phi tính hay ghen ghét, thấy bà Dương thái hậu giữ quyền, trong bụng không yên, bèn xui vua bắt Thái hậu và 72 người thị nữ bỏ ngục tối, rồi đem giết cả. 

Lý Đạo Thành.
Lúc Nhân tông lên làm vua mới có 7 tuổi, có quan Thái sư là Lý đạo Thành làm phụ chính. 
Ông Lý đạo Thành là người họ nhà vua, tính rất đoan chính, hết lòng lo việc nước. Thường những lúc sớ tấu cứ hay nói đến việc lợi hại của dân. Những quan thuộc thì chọn lấy người hiền lương mà cất nhắc lên để làm mọi việc. Bởi vậy thời bấy giờ trong thì sửa sang được việc chính trị, ngoài thì đánh nhà Tống, phá quân Chiêm. Ấy cũng nhờ có tôi hiền tướng giỏi cho nên mới thành được công nghiệp như vậỵ 

Việc Sửa Sang Trong Nước. 
Việc đánh dẹp về đời vua Nhân tông thì nhiều, song những công việc ở trong nước cũng không bỏ trễ. Đời bấy giờ mới khởi đầu đắp cái đê Cơ Xá để giữ đất kinh thành cho khỏi lụt ngập. Việc đắp đê khởi đầu từ đó. 

Năm ất mão (1075) mở khoa thi tam trường để lấy người văn học vào làm quan. Kỳ thi ấy là kỳ đầu tiên ở nước ta, chọn được hơn 10 người. Thủ  khoa là Lê văn Thịnh. Ông Thủ khoa ấy ngày sau làm đến chức thái sư, nhưng vì sự làm phản nghịch, cho nên phải đày lên ở Thao giang (huyện Tam nông, Phú thọ). 

Năm bính thìn (1076) lập Quốc tử giám để bổ những người văn học vào dạy. Đến năm bính dần (1086) mở khoa thi chọn người văn học vào Hàn lâm viện, có Mạc hiển Tích đỗ đầu, được bổ Hàn lâm học sĩ. Sự nho học nước ta khởi đầu thịnh lên từ thời bấy giờ. 

Năm kỷ tị (1089) định quan chế, chia văn võ ra làm 9 phẩm. Quan đại  thần thì có Thái sư, Thái phó, Thái uý và Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu uý. ở dưới những bậc ấy, đàng văn ban thì có Thượng thư, tả hữu Tham tri, tả hữu Gián nghị đại phu, Trung thư Thị lang, Bộ Thị lang v.v.. Đàng võ ban thì có Đô thống Nguyên súy, Tổng quản khu mật sứ, Khu mật tả hữu sứ, Kim ngô thượng tướng, đại tướng, đô tướng, Chư vệ tướng quân v.v... ở ngoài các châu quận, văn thì có Tri phủ, Phán phủ, Tri châu, võ thì có Chư lộ trấn trại quan. 

Việc Đánh Nhà Tống. 
Từ nhà Đinh, nhà Lê trở đi, tuy Tàu không sang cai trị nước ta nữa, nhưng vẫn cứ lăm le có ý muốn xâm lược. Đến khi vua Thần tông nhà Tống (1068 1078) có quan Tể tướng là Vương an Thạch đặt ra phép mới để cải tổ việc chính trị nước Tàu. 

Nguyên nhà Tống bấy giờ bị nước Bắc liêu và nước Tây hạ ức hiếp, hằng năm phải đem vàng bạc và lụa vải sang cống hai nước ấy. Mà trong nước thì không có đủ tiền để chi dụng. Vua Thần tông mới dùng ông Vương an Thạch làm Tể tướng để sửa sang mọi việc. 
Vương an Thạch29đặt ra ba phép về việc tài chính và 2 phép về việc binh chính. 

Việc Tài Chính:
1. Phép thanh miêu: là khi lúa còn xanh thì nhà nước cho dân vay tiền, đến khi lúa chín thì dân lại phải trả tiền lại, tính theo lệ nhà nước đã định mà trả tiền lãi. 
2. Phép miễn dịch: là cho những người dân đinh mà ai phải sưu dịch thì được nộp tiền, để nhà nước lấy tiền ấy thuê người làm. 
3. Phép thị dịch: là đặt ra một sở buôn bán ở chốn kinh sư, để có những thứ hàng hóa gì mà dân sự bán không được, thì nhà nước mua thu cả lấy mà bán. Những người con buôn mà ai cần phải vay tiền thì cho vay, rồi cứ tính theo lệ nhà nước mà trả tiền lãi. 

Việc Binh Chính:
1. Phép bảo giáp: là lấy dân làm lính. Chia ra 10 nhà làm một bảo, 500 nhà làm một đô bảo. Mỗi bảo có đặt hai người chánh phó để dạy dân luyện tập võ nghệ 
2. Phép bảo mã: là nhà nước giao ngựa cho các bảo phải nuôi, có con nào chết thì dân phải theo giá đã định mà thường lại. 
Khi năm phép ấy thi hành ra thì dân nước Tàu đều lấy làm oán giận, vì là trái với chế độ và phong tục cũ. 

Vương an Thạch lại có ý muốn lập công ở ngoài biên, để tỏ cái công hiệu viêc. cải tổ của mình. Bấy giờ ở Ung châu có quan tri châu là Tiêu Chú biết ý Vương an Thạch, mới làm sớ tâu về rằng: nếu không đánh lấy đất Giao  châu thì về sau thành một điều lo cho nước Tàu. 

Vua nhà Tống nghe lời tâu ấy, sai Tiêu Chú kinh lý việc đánh Giao châu. Nhưng Tiêu Chú từ chối, lấy việc ấy làm khó, đang không nổi. Nhân lúc ấy lại có Thẩm Khởi tâu bày mọi lẽ nên đánh Giao châu. Vua nhà Tống bèn sai Thẩm Khởi làm Tri châu châu Quế. Thẩm Khởi ra thu xếp mọi việc theo ý Vương an Thạch, nhưng sau không biết tại lẽ gì phải bãi về. Tống triều cho Lưu Gi ra thay. 

Lưu Gi sai người đi biên các khe ngòi, các đồn lũy, sửa binh khí, làm thuyền bè và lại cấm không cho người ở châu huyện gần đấy đi lại buôn bán với người Giao châu. 

Bên Lý triều ta thấy sự tình như thế mới viết thư sang hỏi Tống triều, thì Lưu Gi lại giữ lại không đệ về kinh. Lý triều tức giận, bèn sai Lý thường Kiệt và Tôn Đản đem 10 vạn binh chia ra làm 2 đạo, thủy bộ cùng tiến sang đánh nhà Tống, lấy cớ rằng nhà Tống đặt ra phép mới làm khổ trăm họ. Vậy quân Đại Việt sang đánh để cưú vớt nhân dân, v.v.....

Năm ất mão (1075) Lý thường Kiệt đem quân sang vây đánh Khâm châu và Liêm châu (thuộc tỉnh Quảng đông) giết hại hơn 8.000 người. Đạo quân của Tôn Đản sang đánh Ung châu (tức là thành Nam ninh thuộc tỉnh Quảng tây), quan Đô giám Quảng tây là Trương thủ Tiết đem binh lại cưú Ung châu, bị Lý thường Kiệt đón đánh ở Côn lôn quan (gần Nam ninh) chém Trương thủ Tiết ở trận tiền. 

Tôn Đản vây thành Ung châu hơn 40 ngày, quan tri châu là Tô Dam kiên cố giữ mãi. Đến khi quân nhà Lý hạ được thành, thì Tô Dam bắt người nhà tất cả là 36 người chết trước, rồi tự đốt mà chết. Người trong thành cũng bắt chước quan tri châu, không ai chịu hàng cả. Quân nhà Lý vào thành giết hại gần đến 58.000 (?) người.

Lý thường Kiệt và Tôn Đản sang đánh nhà Tống giết hại cả thảy đến 10 vạn người, rồi lại bắt người lấy của đem về nước.