Lê Hoàn là người làng Bảo thái, huyện Thanh liêm, tỉnh Hà nam bây giờ, làm quan Thập đạo tướng quân nhà Đinh. Nhân khi vua nhà Đinh còn trẻ tuổi, và lại có quân nhà Tống sang xâm, quân sĩ tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức là Đại hành Hoàng đế, niên hiệu là Thiên phúc, Hưng thống (989 - 993), và Ứng thiên (994 - 1005).
Vua Đại hành lên làm vua rồi sai sứ đưa thư sang nhà Tống nói dối là thư của Đinh Tuệ (Phế đế) xin phong, có ý để nhà Tống hoãn binh lại. Nhưng vua nhà Tống không nghe, sai sứ sang trách Đại hành rằng sao được xưng đế, và lại nói rằng : "Nhà Đinh truyền tập đã ba đời rồi, vậy cho Đinh Tuệ làm Thống soái, Lê Hoàn làm phó. Nhược bằng Đinh Tuệ còn trẽ tuổi không làm được, thì Lê Hoàn phải bắt mẹ con Đinh Tuệ sang chầu Bắc triều, rồi sẽ phong quan tước cho Lê Hoàn". Vua Đại hành biết mưu nhà Tống bèn không chịu và sửa sang sự phòng bị .
Nhà Tống thấy vua Đại hành không chịu nghe lời, bèn sai tướng đem quân sang đánh. Tháng 3 năm tân tị (981) thì bọn Hầu nhơn Bảo và Tôn toàn Hưng tiến quân sang mặt Lạng sơn, bọn Lưu trừng đem thủy quân sang mặt Bạch đằng giang.
Vua Đại hành đem binh thuyền ra chống giữ ở Bạch đằng. Quân nhà Tống tiến lên thế mạnh lắm, quan quân đánh không lại phải lùi. Bấy giờ lụcquân của bọn Hầu nhân Bảo tiến sang đến Chi lăng (thuộc Ôn châu, Lạng sơn), vua Đại hành sai người sang trá hàng để dụ Hầu nhơn Bảo đến chổ hiễm bắt chém đi, rồi đuổi đánh quân nhà Tống chém giết được quá nửa, và bắt được hai người bộ tướng.
Bọn Lưu Trừng thấy lục quân đã tan vỡ, vội vàng đem thủy quân rút về.
Quân ta tuy thắng trận, nhưng vua Đại hành sợ thế lực không chống với Tàu được lâu, bèn sai sứ đem hai viên tướng bắt được sang trả nhà Tống và xin theo lệ triều cống. Lúc ấy ở phiá bắc nước Tàu có quân Khiết đan (Hung nô) đang đánh phá, cho nên vua nhà Tống cũng thuận lời, thôi việc chiến tranh với nước ta, và phong cho vua Đại hành làm chức Tiết độ sứ.
Năm quí tị (993) nhà Tống sách phong cho vua Đại hành làm Giao chỉ quận vương, rồi đến năm đinh dậu (997) lại gia phong là Nam bình vương.
Bấy giờ sứ nhà Tống thường hay đi lại, có khi vua Đại hành phụng chiếu mà không lạy, nói dối rằng đi dánh giặc ngã ngựa đau chân. Nhà Tống biết là nói dối, nhưng cũng làm ngơ đi.
Vua Đại hành phá được quân nhà Tống rồi, định sang đánh Chiêm thành, vì lúc vua Đại hành lên ngôi, có sai sứ sang Chiêm thành, bị vua nước ấy bắt giam sứ lại. Đến khi việc phía bắc đã yên, vua Đại hành đem binh sang đánh báo thù. Quân vua Đại hành sang chiếm giữ dược kinh thành nước Chiêm và bắt được người, lấy được của rất nhiều. Từ đấy nước Chiêm thành phải sang triều cống nước ta.
Việc trong nước thì có các quan đại thần là bọn Từ Mục, Phạm cự Lượng, Ngô tử An giúp rập. Đặt luật lệ, luyện quân lính và sửa sang mọi việc. Bấy giờ thường hay có các động Mường và những người các châu quận làm phản, vua Đại hành phải thân chinh đi đánh dẹp, bình được 49 động Hà man (thuộc huyện Thạch thành, tỉnh Thanh hoá) và dẹp yên những người phản nghịch ở các nơi. Bởi vậy thanh thế vua Đại hành lúc bấy giờ rất là lừng lẫy.
Năm ất tị (1005) là năm Ứng thiên thứ 12, vua Đại hành mất, thọ 65 tuổi, làm vua được 24 năm.